Ngắm hoa nở trong sương
Ngắm hoa nở trong sương
Tác giả: Ngải Mễ
Người dịch: Trần Quỳnh Hương
Giới thiệu
"Tình yêu không nhất thiết phải mất đi lý trí.”
“Không mất lý trí có còn gọi là tình yêu nữa không?”…
Đó là câu hỏi trăn trở xuyên suốt "Ngắm hoa nở trong sương", cuốn bán tự truyện của Ngải Mễ, tác giả của rất nhiều tác phẩm bán chạy tại Trung Quốc. Vậy tình yêu và lý trí liệu có song hành?
“Ngắm hoa nở trong sương” là câu chuyện kể về tình yêu của Ngải Mễ và Allan - Người con trai duy nhất Ngải Mễ từng yêu.
Ngải Mễ gặp Allan khi cả hai vừa bước chân vào giảng đường đại học. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, cô đã dành trọn trái tim cho anh. Trong khi Allan là Hotboy trong trường, được vô vàn cô gái theo đuổi thì Ngải Mễ lại là một cô gái rất đỗi bình thường. Do lo sợ trái tim Allan sẽ thuộc về người khác nên vào một ngày, Ngải Mễ đã chủ động tỏ tình với Allan. Allan đáp lại tình yêu của Ngải Mễ nhưng luôn giữ khoảng cách và dè chừng trước tình cảm này. Ngải Mễ và Allan đã gặp được nhau, đến với nhau trong tình yêu nhưng trong tình yêu đó vẫn còn những vết gợn. Liệu Allan có yêu Ngải Mễ thật lòng? Và tình yêu của Ngải Mễ dành cho Allan có còn lý trí?
----------------
Cô hỏi: “Trong cuộc đời anh, rốt cuộc anh đã yêu người nào thật lòng hay chưa?”
Allan sửng sốt nhìn cô. “Em nghĩ... anh chưa yêu em thật lòng ư?”
“Nếu em nghĩ như thế thì anh có vui không?”
“Em không vui thì làm sao anh vui được?”
“Thế anh đã từng yêu ai? Yêu một cách thật sự, bất chấp và ngông cuồng, thậm chí là mất hết lý trí, không gặp cô ấy sẽ không sống nổi, không có được cô ấy thì chỉ muốn giết người. Anh đã bao giờ yêu như thế chưa?”
“Tình yêu không nhất thiết phải mất đi lý trí.”
“Không mất lý trí có còn gọi là tình yêu nữa không?”...
"Ngắm hoa nở trong sương" cũng có một điểm chung nho nhỏ với "All in love" của Cố Tây Tước. Đó là cả 2 tác phẩm này đều được viết nên từ câu chuyện của chính tác giả. Ngải Mễ - tác giả của cuốn sách, cũng chính là nữ nhân vật chính của tác phẩm này.
-----------------
Tác giả
Ngải Mễ là tác giả của rất nhiều tiểu thuyết bán chạy ở Trung Quốc. Hiện cô đang sống tại Mỹ. Các tác phẩm của cô được độc giả trẻ Việt Nam rất yêu thích.
Các tác phẩm tiêu biểu đã xuất bản tại Việt Nam:
- Cùng anh ngắm hoa sơn tra
- Dịu dàng đến vô cùng
- Trúc mã thanh mai
- Mơ về phía anh…
- Cô gái tháng Sáu
Lời tựa
Mặc dù viết chuyện của mình nhưng tôi không muốn dùng đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất, vì tôi cũng như anh ấy, viết về những chuyện của mình cảm thấy rất vô vị, thà như đang viết chuyện của người khác, có thể đứng ở một cự ly nhất định để nhìn nhận về mình, có thể mỉa mai, châm chọc, phân tích, phê phán, cũng có thể bỏ đi một số đoạn miêu tả về tâm lý.
Đắn đo hồi lâu không chịu cầm bút là do chưa nghĩ ra tên tác phẩm. Đêm qua tôi nằm mơ thấy cuối cùng mình lựa chọn tên tác phẩm là Ngắm hoa nở trong sương. Tôi rất ít khi nằm mơ về những thứ kỳ ảo, huyễn hoặc, rất ít khi gặp ác mộng, cũng rất ít nằm mơ về những chuyện xa vời thiếu thực tế như làm vợ hoàng tử, phát tài phát lộc, mà chỉ nằm mơ về những cái đời thường nhất, rất gần gũi với cuộc sống.
Chương 1
Trong chuyến bay từ Trung Quốc sang Mỹ, Ngải Mễ thực sự không biết viết gì, một là không có bộ phim nào khiến cô tức cảnh sinh tình, hai là trên đường đi, cô buồn ngủ díp mắt, gần như không còn đủ tỉnh táo để ôn lại chuyện cũ, ít nhất là không tỉnh táo đến mức có thể nhớ lại và viết ra được mấy chục, mấy trăm nghìn chữ. Có lẽ do mấy ngày trước, cô phấn chấn quá nên ngủ không ngon, do đó lên máy bay là bắt đầu ngủ gật.
Kể cả những lúc không ngủ thì đầu óc cô cũng chẳng nảy ra được ý tưởng gì, thế nên đối với cô, chuyến bay quốc tế đường dài này tựa như con rồng Trung Quốc, “ngủ yên hàng trăm năm”, đến thành phố Detroit thuộc tiểu bang Michigan mới “bừng tỉnh”.
Người ra đón cô đương nhiên không phải là Jason, nếu là Jason thì câu chuyện đã không được viết thế này. Hơn nữa, đối với một người năm, sáu năm trước mới chân ướt chân ráo từ Trung Quốc sang Mỹ như Ngải Mễ, cái tên Jason không có ý nghĩa đặc biệt gì, vì chàng trai mà cô quen, tên tiếng Anh không phải là Jason mà là Allan, dĩ nhiên tên tiếng Trung không phải là Giang Thành, mà là Thành Cương. Jason và Giang Thành đều là tên anh dùng sau này, có thể là do muốn né tránh người quen, hoặc là muốn thể hiện quyết tâm đã cắt đứt mối liên hệ với quá khứ, thay đổi hoàn toàn, làm lại từ đầu.
Bất luận là nguyên nhân nào, Ngải Mễ đều cho rằng đáng phải tét mông.
Hồi mới sang Mỹ, Ngải Mễ còn chưa biết Allan đang học ở trường Đại học C mà cô chuẩn bị đến. Lâu lắm rồi cô không có tin tức gì của anh và cũng lâu lắm rồi cô không bỏ công tìm hiểu thông tin về anh. Tục ngữ nói: “Không có điều gì bi ai hơn trái tim đã chết”, Ngải Mễ không muốn để trái tim mình chết đi nên đã tự an ủi mình rằng: “Coi như anh ấy đã chết.”
Nhưng cô cũng chỉ “coi như” được một lúc, cô biết chắc chắn là anh chưa chết mà đang sống ở một vùng đất nào đó tại Trung Quốc. Anh có khả năng đặt chân đến mọi tỉnh thành, khu tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương của Trung Quốc, chỉ duy có ra nước ngoài là không thể, vì anh học văn học so sánh, và ở Trung Quốc, rất nhiều người làm nghiên cứu văn học so sánh đều rơi vào khoa Văn, mà người ở khoa Văn thì làm sao ra nước ngoài được? Dĩ nhiên là cũng có, nhưng thường phải đổi ngành, nếu không, vượt ngàn dặm xa xôi sang Mỹ học tiếng Trung hoặc văn học Trung Quốc thì quả là chuyện rất khôi hài.
Khi làm nghiên cứu sinh với thầy hướng dẫn là bố Ngải Mễ, đề tài mà Allan làm là nghiên cứu thi học, nhưng bạn đừng nghĩ anh ấy là một nhà thơ, như lời anh ấy nói thì anh ấy không những không phải “nhà thơ”, mà ngay cả người viết tản văn cũng không phải, cùng lắm thì cũng chỉ được coi là “nhà tạp văn”.
Thi học (Poetics) thực ra có nghĩa là lý luận văn học, hay nói cách khác, Allan làm nghiên cứu so sánh về lý luận văn học của Trung Quốc và phương Tây. Anh ấy nói, khoảng cách giữa anh với nhà văn và tác phẩm có thể dùng cụm từ “bắn đại bác bảy ngày chưa tới” để so sánh, vì những người làm phê bình văn học đều thích chỉ trích, phê bình những tác phẩm văn học mà người khác phải mất bao tâm huyết mới viết ra được, còn người làm nghiên cứu so sánh lý luận văn học lại chỉ tay năm ngón đối với những bài phê bình văn học mà các nhà phê bình hao công tốn sức viết ra. Vậy ai sẽ là người vạch lá tìm sâu với những người làm nghiên cứu so sánh lý luận văn học đây?
Ngải Mễ nói: “Dĩ nhiên là người yêu hoặc vợ họ thôi, thế nên mới nói các cô này chính là thẩm phán cuối cùng của các tác phẩm văn học.”
Không thích chỉ tay năm ngón với người khác là nguyên nhân khiến Allan phải từ bỏ con đường nghiên cứu văn chương để theo ngạch kinh doanh. Câu nói mà anh tâm đắc là: Bản thân mình không viết ra được những tác phẩm văn học hay thì thôi, lại còn già mồm chỉ trích, phê phán tâm huyết, công lao của người khác ư? Như thế cũng hơi quá đáng thật! Còn những người đi theo ngành nghiên cứu so sánh lý luận văn học thì chỉ tay năm ngón trước những bài viết chỉ tay năm ngón của người khác, như thế lại càng quá đáng hơn.
Những lúc bên nhau, Allan thường hỏi Ngải Mễ rằng, nếu thế gian này không có phê bình văn học thì văn hóa Trung Quốc sẽ không tồn tại ư? Nếu không có ai đánh giá, bình luận về bộ Hồng lâu mộng thì không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra nhỉ?
Ngải Mễ không trả lời được những câu hỏi kiểu này, nhưng hồi ấy Ngải Mễ trẻ trung, hiếu thắng, không bao giờ chịu thừa nhận thế gian này lại có câu hỏi mình không trả lời được, thế nên lúc nào cũng đáp rất hùng hổ: “Nếu không có ai bình luận, đánh giá về Hồng lâu mộng thì các nhà “Hồng học” mưu sinh kiểu gì? Nếu không có phê bình văn học thì bố em dựa vào nguồn nào để kiếm tiền nuôi gia đình?”
Allan liền cười, nói: “Ghi lại câu này nhé, sau này khi biên soạn cuốn Danh ngôn Ngải Mễ nhớ đưa vào đấy.”
Thế nên Ngải Mễ cho rằng Allan là công dân yêu nước hạng nhất, dù có đánh chết cũng không ra nước ngoài. Sau khi bố mẹ Allan di cư sang Canada, họ đã nhiều lần khuyên anh sang đó, làm visa thăm thân hay visa công tác đều được, tóm lại là chỉ cần ở gần bố mẹ là được. Nhưng Allan không đồng ý, anh nói: “Một người học tiếng Anh, học Văn như con, sang đó thì làm được gì? Sang dạy người Canada nói tiếng mẹ đẻ của họ hả? Hay là dạy họ văn học Trung Quốc?”
Tinh thần yêu nước này là đáng biểu dương, thời điểm ấy, Ngải Mễ cũng rất ủng hộ, vì cô không muốn anh sang Canada, sợ anh mà đi thì cô không bao giờ gặp lại anh nữa, thế nên lần nào cô cũng nhiệt tình tán thành suy nghĩ này của anh, đọc được câu chuyện nào viết về người Trung Quốc di cư sang Canada nhưng cuộc sống chẳng ra gì là lại mang ra, thêm mắm dặm muối kể cho anh nghe. Đầu tiên anh còn chăm chú nghe, nhiều lần như vậy, anh liền trêu cô: “Ngải Mễ, em không cần phải làm công tác giáo dục chủ nghĩa yêu nước với anh đâu, anh sẽ không bao giờ đặt chân sang đó. Chỉ sợ một ngày nào đó em lại thay đổi ý định và chạy ra nước ngoài thôi.”
Lời nói đùa lại biến thành lời sấm truyền, bây giờ đúng là cô xuất ngoại thật.
Ngải Mễ nghĩ, hoàn cảnh của cô khác Allan, cô học văn học Anh Mỹ, cô không ra nước ngoài thì còn ai ra? Lấy bằng tiến sĩ văn học Anh Mỹ trong nước, có ai coi ra cái gì đâu?
Nếu đã học văn học, ngôn ngữ của người ta thì phải sang đại bản doanh của người ta học. Từ lâu Ngải Mễ đã hạ quyết tâm sang Mỹ học tiến sĩ nhưng cũng như mọi quyết tâm khác của cô, lúc nghĩ thì rất hào hứng, quyết tâm cao độ, đợi đến khi phải bắt tay vào công việc thì lại sợ khổ, sợ chết, sợ mệt, sợ thua, sợ thế này, sợ thế kia, vậy là hồi lâu vẫn án binh bất động. Sau đó, một cơ hội tình cờ đã khiến cô thực hiện được quyết tâm sang Mỹ này.
Chương 2
Việc Ngải Mễ xuất ngoại có liên quan đến Viện Harvard Yenching của Đại học Harvard. Ngải Mễ có thiện cảm đặc biệt với trường Đại học Harvard, mối thiện cảm này nặng đến mức chỉ cần có chữ “Ha” là cô đã ngất ngây rồi, tỉ dụ như Harbin (Cáp Nhĩ Tân), Ha-sa-ke (Kazakhstan) gì gì đó đều có thể khiến cô quan tâm. Nghe nói Allan có mang một phần n dòng máu Kazakhstan, đây có lẽ là một trong những nguyên nhân khiến Ngải Mễ yêu anh.
Tuy nhiên Ngải Mễ là một quân tử điển hình, vì quân tử là người “miệng nói mà không làm”. Nếu đã có thiện cảm với Harvard như vậy thì phải nỗ lực chứ, người ta vẫn nói rằng: “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền” còn gì?
Ngải Mễ vốn là người “có lòng bền”, hay nói cách khác là cô chỉ có lòng mà không có hành động. Cô có quyết tâm đi học Harvard nhưng lại không muốn bỏ công sức ra phấn đấu. Cô đổ lỗi chuyện không thành công của mình cho câu nói “chỉ sợ lòng không bền”. Nếu cổ nhân không nói như thế, mà nói “chỉ sợ người không làm” thì chắc chắn cô sẽ bắt tay vào hành động. Bây giờ cổ nhân đã nói “chỉ sợ lòng không bền” thì cô chỉ có lòng, không hành động cũng không thể trách cô. Cổ nhân cũng đã nói: “Không nghe lời cổ nhân sẽ thiệt thòi suốt đời” rồi mà.
Thế nên Ngải Mễ có hai cụm từ nói hàng trăm lần mà không biết chán, một cụm từ là “chỉ nói vậy thôi”, cụm từ kia là “sau này tính sau”. Bố cô hỏi: “Lâu nay con vẫn bảo là muốn sang Harvard học, sao không thấy con bắt tay vào chuẩn bị gì cả?”
Ngải Mễ liền đáp: “Sang Harvard học ạ? Con chỉ nói vậy thôi mà.”
Nếu bố cô hỏi tiếp câu nữa: “Không sang Harvard thì các trường khác cũng được mà.”
Cô sẽ uể oải đáp: “Sau này tính sau.”
Bạn có thể dùng thử hai cụm từ này, chỉ cần bạn nói thật lòng, nói tỉnh bơ như không, đảm bảo có thể đối phó với mọi câu hỏi. Trong các tác phẩm của mình, Ngải Mễ ít khi dùng cụm từ “chỉ nói vậy thôi”, chắc là do trong forum đã từng có người chỉ trích, cô sợ dùng cụm từ này, mọi người sẽ hiểu lầm là “chẳng có gì ghê gớm, chỉ là thề thốt vậy thôi”.
Sở dĩ Ngải Mễ được xuất ngoại, chủ yếu là do đột nhiên khoa có một cơ hội sang Viện Harvard Yenching học tập. Nói là kinh phí nằm trong Điều ước bồi thường Canh Tý[1], mang ra để hỗ trợ tài chính cho các học giả trong nước. Ngải Mễ không biết Điều ước bồi thường Canh Tý, Cơm Tý là gì, điều khiến cô có hứng thú nhất là hai chữ “Harvard”, bởi đây là mối thiện cảm đặc biệt của cô.
[1] Năm Canh Tý (1900), Nghĩa Hòa Đoàn chiếm Bắc Kinh và một số thành phố. Triều đình nhà Thanh của Từ Hy Thái hậu chạy lên Tây An, bỏ ngỏ Bắc Kinh. Quân Nghĩa Hòa Đoàn mặc sức hãm hại giáo sĩ, kiều dân nước ngoài, cướp phá tài sản của họ và các sứ quán. Trước tình hình đó, lấy danh nghĩa bảo vệ kiều dân và sứ quán, quân đội tám nước Anh, Mỹ, Đức, Pháp, Nga, Nhật, Ý và đế quốc Áo – Hung liên kết tiến vào Bắc Kinh và các thành phố bị chiếm. Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bị dập tắt. Tháng Chín năm 1901, triều đình nhà Thanh phải đàm phán với mười một nước phương Tây và ký Điều ước Tân Sửu gồm mười hai điều khoản; trong đó có điều khoản nhận bồi thường toàn bộ phí tổn và thiệt hại của các nước này do Nghĩa Hòa Đoàn gây ra (các nước tự khai phí tổn và thiệt hại). Khoản bồi thường đó gọi là Khoản bồi thường Canh Tý, quy định bằng 450 triệu lạng bạc, tức mỗi người Trung Quốc lúc đó phải trả một lạng bạc.
Lúc ấy Ngải Mễ đang dạy tiếng Anh tại trường Đại học R, sở dĩ cô vào trường này làm giảng viên tiếng Anh là do có liên quan đến Allan, mặc dù Allan không ở Đại học R.
Nhớ lại chuyện cũ, Ngải Mễ phát hiện ra cuộc sống của mình về cơ bản có thể chia thành hai giai đoạn là Pre-Allan (Tiền Allan) và Post-Allan (Hậu Allan).
Giai đoạn tiền Allan được tính từ thời điểm Allan rời thành phố J về Thâm Quyến công tác. Sáng hôm ấy, khi taxi đến chở Allan ra ga, Ngải Mễ lười nên ở lì trong phòng chứ không tiễn anh xuống dưới. Trước khi đi, anh sang phòng tạm biệt cô, dặn cô nhớ giữ gìn sức khỏe. Cô cũng đáp lại mấy câu tương tự, rồi anh đứng cạnh cửa phòng cô một lúc, sau đó mới xuống sân.
Cô đã không còn giận anh nữa nhưng cô không muốn chạy xuống sân, thể hiện vẻ lưu luyến của mình trước mặt mọi người. Thậm chí cô còn cảm thấy mình không còn lưu luyến gì nữa, cô đã đả thông tư tưởng cho mình, hay nói cách khác là đã được bố cô đả thông tư tưởng sau khi nghe những lời giáo huấn vàng ngọc, hoặc cũng có thể nói là đã bị những điều mê tín mà mẹ cô nói mê hoặc. Bất luận là nguyên nhân gì, tóm lại tư tưởng đã được “đả thông”. Đả thông rồi sẽ không đau đớn, đả thông rồi thì không còn cảm thấy đau khổ khi phải chia ly.
Bố cô nói: “Con không nên coi cậu ấy là con búp bê của con để mang theo bên mình, khi nào muốn chơi thì lôi ra chơi. Cậu ấy là một con người, một người đàn ông, một người đã trưởng thành, cậu ấy có công việc và sự nghiệp của riêng mình. Cậu ấy muốn về miền Nam làm thì tại sao con lại không cho cậu ấy đi?”
“Thế con làm con búp bê cho anh ấy không được ư?” Từ trước đến nay, Ngải Mễ chẳng bao giờ chịu nghe những lời bố cô răn dạy, cô biết cách tốt nhất để đối phó với những lời giáo huấn đó là giở tính ngang. “Con theo anh ấy về Thâm Quyến, để anh ấy mang theo con bên người, lúc nào muốn chơi là lôi ra chơi không được sao?”
Chắc là bố đã hiểu từ “chơi” với nghĩa khác nên nạt cô luôn: “Con gái con đứa, đừng có nói linh tinh!”
Nếu nói bố cô là một diễn giả luôn nói những lời nghiêm túc nhưng hiệu quả lại không cao thì mẹ cô lại có thể mê hoặc lòng người bằng những câu nói sặc mùi mê tín. Mẹ lúc nào cũng nói với vẻ rất thờ ơ, dường như không nhằm mục đích gì, như đang đề cập về một người nào đó không liên quan, cũng có thể đang nói về chính bản thân bà, nhưng những điều mẹ nói lại tựa như tiếng hát rì rào của sóng biển, xuyên qua màn đêm, nhẹ nhàng bay đến bên cô, mê hoặc cô lúc nào không hay.
Mẹ nói: “Đàn ông có một điểm chung là nghĩ “chim nắm trong tay không bằng chim bay trong rừng”. Nếu bám riết lấy anh ta thì anh ta chẳng coi mình ra gì, khi không bắt được, anh ta mới tìm mọi cách đuổi theo.”
Những điều mẹ nói thường là ám chỉ chung chung, không biết là để cho đúng trong mọi hoàn cảnh, địa điểm và thời điểm hay để thoái thác trách nhiệm, nhưng những thính giả nghiêm túc lại tưởng đang nói về họ, thế nên những chủ đề thế này phần lớn là bị bố cắt lời, bố sẽ tranh cãi với mẹ một hồi về vấn đề “rốt cuộc là em đang nói ai vậy”.
“Em đang ám chỉ ai thế? Nghe giọng em cứ như đang nói anh không biết trân trọng em vậy?” Bố hậm hực nói. “Hay là trước đây, em cũng áp dụng sách lược vờ tha để bắt đối với anh?”
Ngải Mễ liền cười thầm và không quan tâm đến chuyện bố mẹ ai thắng ai thua nữa. Cô biết sau đó, bố mẹ cô sẽ ôn lại chuyện cũ của họ, hùng hổ vạch trần xem ngày xưa rốt cuộc ai tán ai, sau đó nữa, đấu văn không giải quyết được vấn đề liền lên giường đấu võ. Nếu với tính cách mắm thối của cô ngày trước, chắc chắn cô sẽ phá cửa phòng họ ra và gào: “Phải đấu văn, không được đấu võ.” Nhưng hiện tại cô không còn thô lỗ như thế nữa, vì cô cũng được coi là người “từng trải”, biết người đang có hứng mà bị người khác phá bĩnh như thế, chắc chắn sẽ tụt hứng, không biết sẽ rủa kẻ gây sự bằng những ngôn từ khủng khiếp thế nào. Nghiêm trọng hơn là mắc thêm tật xấu nào đó chứ chẳng chơi.
Cô cảm thấy những điều mẹ nói cũng có lý, xem ra mình phải làm người mà Allan không bắt được, như thế anh ấy mới nghĩ đủ mọi cách để theo đuổi mình. Biết sớm thế này thì đáng lẽ hồi đầu không nên ngớ ngẩn tỏ tình với anh chàng. Có lẽ hiện tại anh chàng kiên quyết ra đi như vậy cũng là do có được quá dễ dàng.
Hối hận cũng đã muộn! Không biết từ bây giờ áp dụng chiến thuật vờ tha để bắt có còn kịp nữa không? Nhưng nghĩ như vậy, ít nhất trong lòng cũng cảm thấy dễ chịu hơn. Anh tưởng là anh tự ra đi ư? Đừng có tưởng bở, là tôi đang vờ tha anh đó thôi.
Ngải Mễ trốn ở sau rèm cửa, nhìn Allan lên taxi, xe chuyển bánh rồi biến mất trong tích tắc.
Có một số sự kiện, ý nghĩa thực tế của nó thường không sâu sắc, lớn lao như ý nghĩa lịch sử. Khi xảy ra sự kiện, bạn không cảm nhận được điều gì, nhưng trong những tháng ngày dài dằng dặc sau đó, độ ảnh hưởng của sự kiện mới dần dần bộc lộ.
Đối với Ngải Mễ, sự ra đi của Allan là sự kiện như thế. Lúc nhìn anh đứng vẫy tay trước cửa sổ phòng ngủ của cô rồi lên taxi, cô không cảm nhận được nỗi đau khắc cốt ghi tâm, cảm giác như anh đang có chuyến công tác ngắn ngày, chỉ vài ngày thôi sẽ quay về. Tuy nhiên cảnh tượng ấy vẫn thường xuyên hiện lên trước mắt cô trong những năm tháng sau này, khiến cô ngày càng cảm nhận được sâu sắc hơn từ “vĩnh biệt” được bắt đầu sau khi cảnh tượng đó trôi qua rất lâu.
Sự khác biệt giữa hai thời kỳ tiền Allan và hậu Allan nằm ở chỗ tất cả mọi việc có liên quan đến Allan hay không. Trong giai đoạn hậu Allan dài dằng dặc của cô, mỗi lần đưa ra một quyết định nào đó, gần như quyết định đó đều liên quan đến Allan. Sau khi tốt nghiệp, cô vốn định về miền Nam tìm việc, vì Allan đã đi miền Nam, miền Nam có ý nghĩa đặc biệt đối với cô, nhưng bố mẹ cô nhất quyết không đồng ý.
Bố nói: “Con gái làm giảng viên trong trường đại học thì hơn. Về miền Nam làm gì? Xin vào công ty à? Làm bình hoa cho người ta thỏa sức vần vò à? Người học tiếng Anh như con chẳng lẽ được lên làm chủ tịch hội đồng quản trị ư? Cùng lắm là được làm nhân viên hành chính trong công ty, làm đến già cũng chẳng nên công trạng gì.”
Còn mẹ thì nói đông nói tây, từ các cô làm tiếp tân ở văn phòng đến các anh làm nhân viên PR: “Thực ra hồi đầu Allan chọn vào làm việc trong công ty, mẹ đã biết là chuyện của hai đứa không thể bền lâu được. Allan học tiếng Anh, học văn, công ty đó tuyển dụng cũng vì muốn sử dụng vốn ngoại ngữ của thằng bé. Nó không phải là người an phận thủ thường, chắc chắn không bao giờ cam tâm suốt đời chỉ làm trợ lý và phiên dịch cho người ta, chắc bây giờ nó cũng bỏ công ty đó vào trường đại học làm giảng viên rồi.”
Ngải Mễ liền sốt sắng hỏi: “Thế liệu anh ấy sẽ vào trường nào hả mẹ?”
“Ai mà biết được! Nhưng có thành phố nào nhiều trường đại học và còn tập trung nhiều trường đại học nổi tiếng hơn thành phố J nữa chứ?”
Và thế là Ngải Mễ vào trường Đại học R thuộc thành phố J mà lòng tràn đầy hy vọng.
Chương 3
Ngải Mễ những tưởng rằng, vào làm giảng viên tiếng Anh ở trường Đại học R là một điều vô cùng lãng mạn. Bạn thử nghĩ mà xem, có thể cả ngày mang khuôn mặt u buồn như trong Một chuyến đi đầy xúc động[1], mang theo Kiêu hãnh và định kiến[2], cùng sinh viên thảo luận tiếng hú gọi trong Đồi gió hú[3], hoặc có thể đưa ra câu hỏi đầy ẩn ý về tác phẩm nổi tiếng Chuông nguyện hồn ai của Hemingway hoặc hỏi một cách đầy triết lý về câu nói nổi tiếng của William Shakespeare: “Tồn tại hay không tồn tại?”, hay chí ít cũng có thể phát biểu một vài cao kiến về bộ râu của Rhett Butler[4], trong giờ học mở bộ phim phiên bản tiếng Anh Khiêu vũ cùng bầy sói[5], sau đó lại dạy sinh viên hát bài Do re mi trong bộ phim Giai điệu hạnh phúc[6].
[1] Tên gốc của tác phẩm là A Sentimental Journey-Through France and Italy do nhà văn lỗi lạc người Anh thế kỷ 18 là Laurence Sterne (1713 – 1768) viết năm 1768.
[2] Là tác phẩm nổi tiếng nhất của nữ nhà văn người Anh, Jane Austen, được viết từ năm 1796 đến năm 1797 và xuất bản năm 1813.
[3] Là tiểu thuyết duy nhất của nữ nhà văn người Anh Emily Brontë.
[4] Rhett Butler là nhân vật hư cấu trong cuốn tiểu thuyết Cuốn theo chiều gió của tác giả Margaret Mitchell.
[5] Khiêu vũ cùng bầy sói là bộ phim về cao bồi miền Tây được phát hành năm 1990 dựa theo tiểu thuyết cùng tên, kể về câu chuyện của một viên trung úy trong quân đội Mĩ thời kỳ nội chiến. Bộ phim do đạo diễn kiêm diễn viên Kevin Costner sản xuất trong suốt năm năm với kinh phí chỉ 18 triệu đô la. Bộ phim có giá trị nghệ thuật cao và đoạt 7 giải Oscar, trong đó có giải Phim hay nhất và giải Quả cầu vàng cho Phim chính kịch hay nhất.
[6] Giai điệu hạnh phúc (hay Tiếng tơ đồng) là bộ phim ca nhạc năm 1965 của đạo diễn Robert Wise, có sự tham gia của các diễn viên Julie Andrews và Christopher Plummer.
Dạy tiếng Anh chỉ vì ham sự lãng mạn này còn gì nữa? Nghèo thì nghèo thật nhưng lãng mạn vẫn nên có, hơn nữa những người yêu thích sự lãng mạn thường cũng rất nghèo mà.
Ngải Mễ không thể ngờ rằng, khoa tiếng Anh trong các trường đại học ở Trung Quốc hiện nay đã gạt bỏ những cái thuộc về phạm trù lãng mạn một cách triệt để. Có lẽ cũng không phải cố tình bỏ rơi sự lãng mạn đâu, chủ yếu là vì bỏ rơi “cái nghèo”, nhưng lại vô tình đánh mất luôn sự lãng mạn.
Vì thế có thể nói là sự nghiệp dạy học của Ngải Mễ với hai chữ “lãng mạn” thật sự là bắn đại bác bảy ngày chưa tới.
Ngoài dạy sinh viên khoa tiếng Anh, Ngải Mễ còn dạy các lớp linh tinh khác. Không biết khoa mở ra bao nhiêu lớp, có lớp phụ đạo cho đối tượng tự ôn thi, có lớp cấp tốc tiếng Anh thương mại, có lớp GRE tăng cường, lớp luyện nghe TOEFL, lớp bổ túc kiến thức cho cán bộ đi học nước ngoài, lớp rèn kỹ năng thi đại học, lớp tiếng Anh thiếu niên, lớp tiếng Anh thiếu nhi, lớp bồi dưỡng tiếng Anh cho y tá, lớp bồi dưỡng tiếng Anh cho thủy thủ…
Ở đây không liệt kê cụ thể nữa vì một số lớp có thể dính dáng đến vấn đề “bản quyền”. Nhiều lớp như vậy, nếu muốn đặt cho mỗi lớp một cái tên vừa gần gũi lại vừa mang ý nghĩa quảng cáo mà không có trí tưởng tượng phong phú sẽ không thể làm được. Còn người có trí tưởng tượng phong phú chắc chắn cũng sẽ nghĩ đến việc dùng bản quyền để bảo vệ trí tưởng tượng của mình, nếu không liệu có còn được gọi là có trí tưởng tượng phong phú không?
Tất cả giáo viên trong khoa đều bị phân công dạy các lớp này, bất luận anh có cần khoản tiền hỗ trợ mấy chục nhân dân tệ cho mỗi tiết học hay không, vì điều này liên quan đến vấn đề tăng thu nhập cho khoa.
Cụm từ “tăng thu nhập” được khoa của Ngải Mễ nhắc đến nhiều nhất khi họp hành, tuần nào cũng có hai cuộc họp định kỳ, từ đầu đến cuối chỉ thảo luận làm thế nào để có thể tăng thêm thu nhập. Câu cửa miệng và lời mào đầu của chủ nhiệm khoa là: “Các đồng chí thử nghĩ xem chúng ta còn có thể mở các lớp học theo mô hình nào để tăng thu nhập? Đây là chuyện lớn liên quan đến lợi ích thiết thực của mỗi giáo viên. Đồng thời cũng là chuyện đại sự liên quan đến sự sinh tồn của khoa tiếng Anh chúng ta. Nếu không tăng được thu nhập, khoa sẽ lấy gì để giữ chân mọi người? Mọi người sẽ lấy gì để giữ chân người thân trong gia đình mình?”
Ngải Mễ cảm thấy những điều vị chủ nhiệm khoa này nói rất có vấn đề, nhưng cô lại không thể vạch trần, nghe cứ như hiện nay mọi mối quan hệ giữa con người với con người và mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đều phải dựa vào đồng tiền để duy trì, nếu anh không có tiền thì người thân sẽ bỏ anh mà đi vậy. Có đúng là như vậy không? Có đúng là dân tộc Trung Hoa đã đến thời khắc nguy hiểm đó rồi không? Hình như chưa đến nỗi thì phải.
Tuy nhiên Ngải Mễ cũng không có thù hằn gì với tiền bạc, cô cũng biết lợi ích của đồng tiền, cô còn biết đồng lương ít ỏi trên bảng lương kia chẳng đáng là bao, ai thèm quan tâm đến số tiền đó chứ. Chẳng phải tất cả đều dựa vào “thu nhập thêm” đó sao?
Từ trước tới nay, mỗi lần ngồi họp với khoa, Ngải Mễ đều như người say sóng, chỉ biết vấn đề mà lãnh đạo khoa phát biểu toàn là “tăng thu nhập, tăng thu nhập”, “mở lớp, mở lớp”, cô cũng chẳng buồn quan tâm đến việc tăng thu nhập như thế nào, mở những lớp gì. Thái độ của cô về các lớp kiểu này là tránh được sẽ cố tránh. Đã vào làm giảng viên trong trường đại học rồi thì phải xác định tư tưởng là nghèo suốt đời, cuối năm cũng chẳng thèm quan tâm đến việc được thưởng mấy tháng lương cho mệt đầu.
Tuy nhiên một lần đi họp, khoa lại không dồn hết thời gian để bàn về vấn đề “tăng thu nhập” mà nói về chuyện “Harvard Yenching”, nói Viện Havard Yenching cho khoa ta một suất, lần này chúng ta phải làm cho minh bạch, cạnh tranh tự do, người nào đủ tiêu chuẩn sẽ được cử đi học, tất cả giảng viên dưới ba mươi lăm tuổi đều có thể đăng ký, tuần sau khoa sẽ tổ chức một buổi thi, thi đọc, dịch, viết, nghe và văn học, giáo sư trong khoa sẽ chấm, tên thí sinh được giữ bí mật. Ai thi được thì người đó đi.
Vừa nghe đến mấy chữ “Harvard Yenching” là tinh thần Ngải Mễ lại sục sôi. Không biết có nên tham gia không nhỉ? Thử sức xem sao? Nếu chỉ dựa vào kết quả bài thi thì cũng ổn. Cổ nhân có câu: Là lừa hay ngựa, phải dắt ra xem. Xem ra cũng phải dắt mình ra xem sao.
Các giáo viên trẻ trong khoa đều nói: “Ngàn năm có một, ngàn năm có một!” Không phải nói suất học bổng của Harvard Yenching là ngàn năm có một mà ý muốn nói rằng, ngàn năm mới có dịp khoa tổ chức thi minh bạch như vậy, vì trước đây có suất đi học ở đâu đều là khoa giới thiệu hoặc tính theo thâm niên công tác, lúc nào cũng kín như bưng, những kẻ vô danh tiểu tốt như Ngải Mễ không phải là vợ chủ nhiệm khoa, cũng chẳng phải con gái của giám đốc nhà xuất bản trường Đại học R, chắc chắn là không đến lượt, thế nên lần này Ngải Mễ quyết định tận hưởng tính minh bạch của khoa và thế là đã đăng ký.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian